Lăng Hoàng Cao Khải - Hồ bán nguyệt
tổ 10B Thái Hà, P. Trung Liệt, Q. Đống Đa, Hà Nội
Giới thiệu
Lăng Hoàng Cao Khải có địa chỉ tại tổ 10B Thái Hà, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Hoàng Cao Khải (1845-1933), nguyên danh là Hoàng Văn Khải, tự là Đông Minh, hiệu là Thái Xuyên, quê quán tại làng Đông Thái (nay thuộc xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh); Ông đỗ cử nhân năm 1868 và được bổ làm Huấn đạo huyện Thọ Xương, sau làm Giáo thụ phủ Hoài Đức. Trước khi Pháp chiếm Bắc Kỳ, Hoàng Cao Khải lần lượt giữ các chức vụ: Tri huyện Thọ Xương rồi thăng Quyền Án Sát Lạng Sơn, Quyền Tuần Phủ Hưng Yên.
Năm 1891, ông được phong Thái Tử Thiếu Bảo, Binh Bộ Thượng Thư, Khâm Sai Kinh Lược Sứ Bắc Kỳ. Năm 1892, được phong Võ Hiển Đại Học Sĩ, hàm Chánh Nhất Phẩm.
Năm 1893, Hoàng Cao Khải huy động nhân dân các nơi lấp đầy các ruộng trũng, ao hồ, vùng đầm lầy hoang hóa thuộc các làng Nam Đồng, Thịnh Quang, Khương Thượng để xây dựng khu dinh thự lấy tên là ấp Thái Hà (ghép tên làng Đông Thái – quê ông với Hà Nội – nơi Hoàng Cao Khải cư trú).
Hoàng Cao Khải đã cho xây dựng trong khu ấp Thái Hà nhiều công trình kiến trúc trong khu tư dinh của họ Hoàng gồm: Nhà Thờ họ (Từ Đường), 12 lăng mộ (trong đó trung tâm là lăng Hoàng Cao Khải và lăng Hoàng Trọng Phu), đình Làng, đình Tế, hồ Vuông, hồ Bán Nguyệt, gò Nghênh Phong, Trụ Đèn … Ngoài ra, Hoàng Cao Khải còn vận động các quan lại, nho sĩ mua đất ở đây để lập biệt thự cho đông vui, như: cụ Đốc Học Nguyễn Văn Ngạc, Nguyễn Quang Oánh, Tổng Đốc Nguyễn Năng Quốc, Trần Lưu Huệ, cụ Cử Nhân Đông Mẫu (là thân sinh cụ Nguyễn Ngọc Phan)…
Lăng Hoàng Cao Khải được xây trên khu đất cao ráo, thoáng mát. Trước lăng là khu hồ Bán Nguyệt khá rộng, mặt nước hồ phẳng lặng, trong xanh tạo nên vẻ nên thơ, trầm mặc của một di tích đã bị màu thời gian bao phủ; hai bên sân đặt 8 pho tượng Vệ Binh bằng đá đứng gác. Kết cấu kiến trúc của lăng làm dạng chữ “Đinh”, gồm 3 gian Tiền Tế, 1 gian Hậu Cung. Tất cả các hạng mục đều được làm bằng đá lấy từ phủ Quốc Oai đem về rồi được các hiệp thợ nổi tiếng gia công, chế tác. Hệ thống cột, xà, bảy, cửa võng, diềm, tường, gạch lát nền đều bằng đá và chạm trổ chau chuốt, tinh vi.
Tòa Tiền Tế được làm cao hơn mặt sân, phía trước làm 5 bậc lên xuống bằng những phiến đá xanh cỡ lớn ghép lại. Toàn bộ kiến trúc được liên kết bởi 14 cột đá tròn đường kính 25cm, và 12 cột đá vuông có cạnh là 40cm x 40cm đỡ phần mái. Mái làm trần ghép bằng những phiến đá lớn. Nền lát đá xanh. Gian giữa đặt án thờ, hai gian hồi đặt hai ngôi mộ của Hoàng Cao Khải cùng vợ là Phạm Thị Tố.
Hậu Cung được kết cấu bởi 4 cột vuông và 4 cột tròn đỡ mái, trên các đầu cột gắn đầu rồng, thân cột chạm hoa cúc, văn hình học. Phần mái tạo kiểu mái đốc được ghép bởi những phiến đá xanh có đục chạm hoa sen, văn kỷ hà, chữ triện….
Phần trang trí trong lăng tập trung chủ yếu tại các đầu cột và trần nhà họa tiết rồng ngậm hạt ngọc, lá đề, hoa dây, văn hình học, cánh sen cách điệu với lối chạm nổi tinh tế, mềm mại nhưng vô cùng phóng khoáng mang niên đại nghệ thuật thế kỷ XIX.
Lăng Hoàng Cao Khải là một trong những công trình kiến trúc độc đáo trong điêu khắc đá của người Việt thế kỷ XIX. Nét độc đáo của di tích được thể hiện từ khâu xây lắp đến cách trang trí trên kiến trúc, nghệ thuật lắp ghép những tấm đá cỡ lớn thành khối rất tốn kém và công phu. Các nhà sử học Việt Nam coi đây là “Thành nhà Hồ thứ hai” của người Việt. Còn nhà sử học người Pháp Phillippe Papin đánh giá công trình này là “Một trong những đỉnh cao của kiến trúc đá Phương Đông”.
Lăng Hoàng Cao Khải đã được xếp hạng là di tích cấp Quốc gia năm 1962.
Bản đồ
Địa điểm xung quanh